Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Quyết liệt cơ cấu lại ngân sách và nợ công theo hướng bền vững hơn

THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN  
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Quyết liệt cơ cấu lại ngân sách và nợ công theo hướng bền vững hơn

Chiều 5/11, trong phiên thảo luận tại Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã báo cáo bổ sung, làm rõ một số vấn đề được đại biểu nêu liên quan đến dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2020, năm 2021, đánh giá kế hoạch tài chính ngân sách 5 năm 2016-2020 và dự thảo kế hoạch tài chính ngân sách 5 năm 2021-2025.

BT.jpg

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trả lời tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIV. Ảnh: QH

Đã giãn, giảm khoảng 100.000 tỷ đồng nghĩa vụ nộp NSNN của người dân, doanh nghiệp

Về dự toán NSNN năm 2020, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, dự toán thu NSNN năm 2020 được xây dựng trên tinh thần quyết tâm cao, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế - xã hội (KTXH) và NSNN 5 năm 2016-2020. Theo đó, dự toán được xây dựng trên cơ sở dự kiến tăng trưởng kinh tế 6,8%, giá dầu thô là 60 USD/thùng, lạm phát dưới 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 7%, kim ngạch nhập khẩu tăng 9%. Từ đó, tốc độ tăng thu nội địa dự kiến trên 10% so với thực hiện năm 2019 trong điều kiện thực hiện thu năm 2019 tăng rất cao, vượt 9,9% so với dự toán.

Tuy nhiên, bước vào năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư, thương mại và tài chính toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam. Bên cạnh đó, diễn biến bất thường của thiên tai, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân. Trước những khó khăn này, Chính phủ đã trình Quốc hội và ban hành theo thẩm quyền nhiều giải pháp, chính sách tài khóa để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội, như tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, giảm 30% thuế TNDN cho doanh nghiệp có doanh thu dưới 200.000 tỷ đồng, giảm 30% thuế bảo vệ môi trường với nhiên liệu bay và nâng mức giảm trừ gia cảnh thuế TNCN, giảm tiền thuê đất, gia hạn thời gian nộp thuế GTGT, thuế TNDN và tiền thuê đất, gia hạn nộp thuế TTĐB và giảm 50% lệ phí trước bạ với ô tô sản xuất trong nước.

Bộ Tài chính đã ban hành theo thẩm quyền 21 thông tư về giảm, miễn các loại phí và lệ phí. Đến nay, các chính sách trên đã góp phần giảm, giãn khoảng 100.000 tỷ đồng nghĩa vụ nộp NSNN, giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về dòng tiền và tăng tích tụ vốn.

Với tinh thần như vậy, số thu NSNN 10 tháng đầu năm đã phản ánh khá rõ những khó khăn của doanh nghiệp và tác động của các chính sách miễn, giảm thuế, phí. Cụ thể, thu NSNN 10 tháng đạt 75,2% dự toán, giảm 10,3% so với cùng kỳ năm 2019 và là mức thấp nhất trong 10 năm gần đây, trong đó ngân sách trung ương (NSTƯ) đạt 70% và ngân sách địa phương đạt 81% dự toán. Một số địa phương có số thu lớn, có điều tiết về NSTƯ nhưng thực hiện 10 tháng rất thấp như Hà Nội 70,1%, TP.HCM 64,8%, Vĩnh Phúc 60,8%, Đà Nẵng 56,4%, Quảng Nam 45,5%, Khánh Hòa 58,8%, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết.

Bên cạnh việc triển khai các giải pháp hỗ trợ miễn, giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp, Bộ Tài chính cũng chỉ đạo cơ quan thuế, hải quan tăng cường quản lý thu, chống thất thu và chống chuyển giá. Trong 10 tháng đầu năm đã thực hiện 48,90 nghìn cuộc thanh tra và kiểm tra và kiểm tra hơn 436.000 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế, kiến nghị xử lý 39.684 tỷ đồng, trong đó thu vào NSNN 13.267 tỷ đồng, giảm khấu trừ 1.187 tỷ đồng, giảm lỗ 25.229 tỷ đồng. Đồng thời, đã thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế GTGT và phạt 117 tỷ đồng. Trong 9 tháng đầu năm, cơ quan thuế đã thu hồi được 20.292 tỷ đồng tiền nợ đọng thuế từ năm 2019 chuyển sang.

Đảm bảo kịp thời các nhiệm vụ chi nhờ dư địa tài khoá tích luỹ

Để đánh giá tình hình năm 2020, Bộ Tài chính đã rà soát, làm việc rất kĩ với các địa phương trên cơ sở dự kiến tăng trưởng kinh tế là 2 đến 3% so với kế hoạch ban đầu là 6,8%. Ước thu NSNN năm nay giảm khoảng 190.000 tỷ đồng bằng 12,5% so với dự toán. Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn phải tăng chi cho phòng chống thiên tai, dịch bệnh và hỗ trợ thêm về an sinh xã hội. Đến nay, NSNN đã chi khoảng 19.000 tỷ đồng cho công tác phòng chống và hỗ trợ người dân do đại dịch COVID-19 từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi năm 2019 chuyển sang. Đồng thời, NSNN cũng đã chi khoảng 12.500 tỷ đồng hỗ trợ các hộ chăn nuôi bị ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi.

Đối với công tác hỗ trợ khắc phục thiên tai và bão, lũ, Chính phủ đã hỗ trợ 382 tỷ đồng cho 11 địa phương miền núi phía Bắc để khắc phục hậu quả thiên tai mưa đá, giông lốc, sạt lở đất, hỗ trợ 530 tỷ đồng cho 8 địa phương vùng ĐBSCL để khắc phục hạn hán và xâm nhập mặn.

Đối với ảnh hưởng của lũ miền Trung - Tây Nguyên, trong tháng 10/2020, bước đầu NSTƯ đã hỗ trợ 500 tỷ đồng cho 5 địa phương miền Trung, đồng thời có cơ chế hỗ trợ thiệt hại về nhà ở do tác động của thiên tai, bão, lũ gây ra trong tháng 10/2020 cho người dân một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Theo đó, dự kiến NSTƯ sẽ hỗ trợ thêm khoảng 1.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ dự kiến là 40 triệu đồng cho 1 hộ có nhà bị sập, đổ, trôi hoàn toàn và 10 triệu đồng cho hộ có nhà ở hư hỏng nặng.

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng bày tỏ sự đồng tình với ý kiến của đại biểu Vũ Thị Lưu Mai đoàn Hà Nội và một số đại biểu đề xuất rà lại dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản năm 2021 và giai đoạn 2021-2025, ưu tiên gói đầu tư cơ sở hạ tầng KTXH vùng thiệt hại nặng do thiên tai và bão lũ.

Trong điều kiện thu NSNN giảm và một số khoản chi phát sinh tăng lớn như đã nêu, để đảm bảo cân đối NSNN, lãnh đạo ngành Tài chính nhấn mạnh yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục tiết kiệm chi. “Chúng ta đã cắt giảm tối thiểu 70% công tác phí trong và ngoài nước, tiết kiệm thêm 10% kinh phí thường xuyên ngoài lương và các khoản tiết kiệm khác. Theo thống kê của chúng tôi hiện nay được khoảng 17.400 tỷ đồng”, Bộ trưởng báo cáo thêm.

Mặt khác, Chính phủ cũng đề xuất Quốc hội cho phép tăng bội chi NSNN năm 2020, từ khoảng 95.000 đến 133.500 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ bội chi là 4,99 đến 5,59% GDP. Với phương án này thì nợ công cuối năm nay sẽ khoảng 56,8 đến 57,4% GDP.

Thực tế, việc triển khai kế hoạch KTXH và NSNN năm 2020 chịu tác động nghiêm trọng bởi đại dịch COVID-19, thiên tai, dịch bệnh nhưng nhờ dư địa tài khóa tích lũy được qua 4 năm 2016-2019 thực hiện tái cơ cấu lại NSNN, quản lý an toàn nợ công theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 25 của Quốc hội về kế hoạch tài chính, NSNN 5 năm 2016-2020, chúng ta vẫn đảm bảo được yêu cầu chi tiêu cho nhiệm vụ quan trọng, kể cả nhiệm vụ cấp bách phát sinh do thiên tai, dịch bệnh, cho quốc phòng, an ninh và đảm bảo nguồn cho đầu tư phát triển. Theo dự toán năm 2020, vốn cho đầu tư công là 470.600 tỷ đồng, tính cả các nguồn năm trước chuyển sang thì năm nay chúng ta phải giải ngân 630.000 tỷ đồng nhằm kích cầu trong nước, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn tới đây. “Đây có thể coi là điểm sáng của công tác tài chính NSNN trong giai đoạn 2016-2020”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh.

Bội chi giảm, chất lượng nợ công ngày càng được cải thiện

Về đánh giá kế hoạch tài chính 5 năm 2016-2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính nêu rõ kết quả thực hiện phát triển KTXH và NSNN năm 2020 ảnh hưởng lớn đến kết quả 5 năm 2016-2020. Về kinh tế, nếu tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2 đến 3% thì bình quân 5 năm 2016-2020 đạt 5,8 đến 5,9%, trong khi chỉ tiêu đề ra là 6,5 đến 7%. Về NSNN, dự kiến thu NSNN năm 2020 giảm khoảng 190.000 tỷ đồng so với dự toán thu 5 năm ước giảm khoảng 150.000 tỷ đồng so với kế hoạch.

Tuy nhiên, nhìn về tổng thể, Bộ trưởng đánh giá đến nay chúng ta cơ bản đạt được các mục tiêu về tài chính, ngân sách theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 25 của Quốc hội.

Cụ thể, tỷ lệ huy động vào NSNN đạt 24,5% so với kế hoạch đề ra là 23,5%. Cơ cấu thu chi chuyển dịch tích cực, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN tăng từ mức 68% của giai đoạn 2011-2015 lên mức 80,9% của giai đoạn 2016-2019 và ước đạt 84,3% trong năm 2020. Mục tiêu đề ra của chúng ta là 84%-85%. Bố trí tỷ trọng chi dự toán đầu tư phát triển tăng dần lên mức 26,9% trong năm 202, thực tế thực hiện đạt 27%-28%, cao hơn mục tiêu là 25%-26%. Tỷ trọng chi thường xuyên giảm xuống 60,5% trong dự toán năm 2020 so với mục tiêu là thấp hơn 64%, trong khi vẫn đảm bảo nguồn thực hiện điều chỉnh lương cơ sở, các nhiệm vụ quan trọng quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Tỷ lệ bội chi NSNN khoảng 3,8% GDP, đạt mục tiêu cả giai đoạn thấp hơn 3,9% GDP. Nợ công giảm từ mức 63,7% năm 2016 xuống còn 55% năm 2019 và lên 56,8% năm 2020.

Liên quan đến ý kiến đại biểu Nguyễn Minh Sơn (Đoàn Tiền Giang) về tình hình nợ công, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng báo cáo thêm cho biết các chỉ tiêu về chất lượng nợ công thời gian qua đã được cải thiện rất lớn. Tốc độ tăng nợ công của giai đoạn 2011-2015 là 18,1%, bằng 3 lần tăng trưởng kinh tế, đến giai đoạn 2016 - 2019 giảm còn bằng 6,8%, tương đương với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Riêng năm 2020, ước tăng khoảng 10% so với năm 2019. Cơ cấu nợ vay trong nước, nước ngoài được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn, tức là tăng vay trong nước, kỳ hạn phát hành, kỳ hạn danh mục trái phiếu Chính phủ tăng lên, trong khi lãi suất vay giảm rất sâu, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Trong 10 tháng đầu năm nay, chúng ta đã phát hành 270.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn bình quân là 13 năm, lãi suất 2,95%, là mức rất thấp.

Bên cạnh những kết quả ấn tượng này, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng đồng tình với ý kiến của đại biểu Nguyễn Minh Sơn và đại biểu Trương Trọng Nghĩa rằng, mặc dù tỷ lệ nợ công so với GDP thời gian qua có giảm nhưng quy mô nợ, số tuyệt đối vẫn tăng. Nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi so với tổng thu NSNN năm nay và một vài năm tới tăng cao, khối lượng phải huy động hằng năm lớn, tạo rủi ro về an ninh, tài chính.

Điều này một mặt đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quyết liệt cơ cấu lại NSNN và nợ công theo hướng bền vững hơn. Mặt khác, phải nâng cao hơn nữa hiệu quả đồng vốn, chúng ta vay về chỉ dành cho đầu tư phát triển”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nêu rõ.

Năm 2021: Dù khó khăn, vẫn bố trí tăng chi cho đầu tư phát triển

Về dự toán năm 2021, mặc dù có nhiều dự báo tích cực, nhưng Bộ trưởng đánh giá sự phục hồi kinh tế thế giới và phụ thuộc vào khả năng kiểm soát của dịch COVID-19 trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản như ổn định chính trị, môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Trong năm tới vẫn phải yêu cầu duy trì mục tiêu kép, vừa tập trung cho công tác phòng, chống dịch, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế trong bối cảnh tác động của biến đổi chính trị, kinh tế thế giới, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ngày càng lớn.

Toan canh.jpg

Toàn cảnh kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XIV. Ảnh: QH

Trên cơ sở đánh giá sát khả năng thu ngân sách của từng địa phương năm 2020, dự báo kinh tế thế giới, dự toán thu ngân sách trên cơ sở GDP tăng 6%, lạm phát dưới 4%, giá dầu thô 45 USD/thùng. Mặt khác, tác động của đại dịch COVID-19 đến phát triển KTXH và NSNN không chỉ dừng trong năm 2020 mà còn sang năm 2021, thậm chí có thể một số năm tiếp theo. “Theo kinh nghiệm trong các năm 2012, 2013, 2014 khi kinh tế suy giảm thì tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh chỉ bằng 1/2 tốc độ tăng trưởng GDP. Trên cơ sở đó, sau khi làm việc kỹ với các địa phương, chúng tôi dự kiến tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh năm 2021 là 5,6% so với ước thực hiện năm 2020 là mức khá tích cực trong điều kiện còn nhiều rủi ro”, Bộ trưởng cho biết.

Tuy nhiên, dự toán thu ngân sách năm 2021 là 1.340.000 tỷ đồng giảm 170.000 tỷ đồng so với dự toán năm 2020. Tỷ lệ huy động vào NSNN là 15,5% GDP, trong đó từ thuế, phí là 13% GDP điều chỉnh, tương đương với mức 19,7 và 16,6% GDP chưa điều chỉnh. Trước tình hình trên, để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, tạo động lực cho phát triển KTXH và kích cầu trong nước, Chính phủ đề xuất bội chi NSNN năm 2021 là 4% GDP, tương ứng với 5% GDP chưa điều chỉnh, tăng 1,5% so với dự toán năm 2020 và tăng thêm 109.000 tỷ đồng. Bội chi NSNN chỉ dành cho đầu tư phát triển, không dành cho chi thường xuyên. Khi đó, nợ công năm 2021 sẽ là 46,1% GDP chưa điều chỉnh, tương ứng với 58,6% GDP chưa điều chỉnh.

Tổng hợp dự toán thu 2021 và bội chi năm 2021 thì tổng chi NSNN năm 2021 vẫn giảm khoảng 60.000 tỷ đồng so với dự toán năm 2020 và được dự kiến bố trí như sau: Ưu tiên bố trí tăng chi đầu tư phát triển để đạt tỷ trọng 28,3% tổng chi NSNN. Bố trí chi trả nợ lãi và dự phòng theo quy định của Luật NSNN, dành nguồn ưu tiên cho các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó ưu tiên thực hiện các chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khi đó chi thường xuyên năm 2021 giảm 56.000 tỷ đồng so với dự toán năm 2020. Vì vậy, đồng tình ý kiến đại biểu Dương Văn Thống (đoàn Yên Bái) và một số đại biểu đã nêu, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho rằng năm 2021 chúng ta phải triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, đồng thời thực hiện đồng bộ có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội về tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập.

Cuối cùng, về dự kiến kế hoạch tài chính NSNN 5 năm giai đoạn 2021-2025, theo dự thảo báo cáo về KTXH trình Đại hội 13 của Đảng, mục tiêu tăng trưởng kinh tế của giai đoạn 2021-2025 bình quân khoảng 6,5 đến 7%. Chính phủ dự kiến tổng thu NSNN cả giai đoạn khoảng 7,8 triệu tỷ đồng, gấp 1,2 lần so với giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ huy động vào NSNN bình quân khoảng 15-16% GDP, trong đó từ thuế, phí khoảng 13-14%, giảm so với giai đoạn 2016-2020 là 24,5% và 20,4% GDP chưa điều chỉnh, chủ yếu là do từ năm 2021 chúng ta điều chỉnh quy mô GDP tăng lên từ khoảng 25 đến 27% so với mức hiện hành. Nếu tính theo GDP hiện hành, mức huy động vào NSNN của giai đoạn 2021-2025 khoảng 19 đến 20%, trong đó từ thuế, phí là 16 - 17%.

Bên cạnh đó, giai đoạn tới dự kiến thu từ đất và hoạt động xuất, nhập khẩu cơ bản ngang bằng với giai đoạn 2016-2020, thu từ dầu thô chỉ bằng 1/2 của giai đoạn 2016-2020, chỉ chiếm 3,3% GDP điều chỉnh của giai đoạn 2021-2025. Mặc dù vậy, mức độ huy động từ thuế, phí bình quân 5 năm đạt 13-14% GDP điều chỉnh, là mức cơ bản tương ứng với mức huy động của các nước ASEAN-5. Cơ cấu thu tiếp tục được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa bình quân chiếm 85-86% tổng thu NSNN. Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu chiếm 12,7%, thu từ dầu thô còn 1,4% tổng thu NSNN, trong khi giai đoạn 2011-2015 thu dầu thô là 12,7%, giai đoạn 2016-2020 còn 3,6%, giai đoạn 2021-2025 còn 1,4% tổng thu NSNN.

Đề xuất kế hoạch 2021 – 2015 trên tinh thần quyết tâm cao

Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, kế hoạch năm 2021-2025 được dự kiến trên tinh thần phấn đấu rất tích cực. Tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh bình quân là 8%/năm, trong đó giai đoạn 2023-2025 là 10%/năm trong bối cảnh tiềm ẩn nhiều rủi ro của kinh tế thế giới, đại dịch COVID-19 và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Trong nước, bên cạnh các yếu tố thuận lợi còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về thiên tai và dịch bệnh. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu chi phục vụ phát triển KTXH và giảm dần bội chi NSNN, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng kiến nghị tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thu NSNN gắn với cải cách lại NSNN theo hướng bao quát các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế, như ý kiến nhiều đại biểu đã phát biểu.

Đồng thời, đảm bảo tỷ trọng thu nội địa, tỷ trọng giữa thuế trực thu và thuế gián thu ở mức hợp lý. Khai thác tốt thuế tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường. Hạn chế tối đa việc lồng ghép các chính sách an sinh xã hội trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến khích đầu tư phát triển. Tiếp tục xây dựng chính sách phân cấp ngân sách để đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTƯ trong điều kiện 2 khoản thu NSTƯ hưởng 100% là thu từ dầu thô chỉ bằng 1/2, thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu cơ bản đi ngang so với giai đoạn 2016-2020. Đồng thời, cần nghiên cứu giảm dần cơ chế lồng ghép ngân sách để đảm bảo tính chủ động của ngân sách địa phương.

Về chi NSNN, mức chi dự kiến 5 năm tới là 9,7 triệu tỷ đồng, gấp 1,3 lần giai đoạn 2016-2020, trong đó chi đầu tư phát triển là 2,75 triệu tỷ đồng, chiếm 27-28% tổng chi NSNN, nhằm hỗ trợ nền kinh tế khôi phục sau đại dịch. Chi thường xuyên triệt để tiết kiệm, đảm bảo cho các chế độ, chính sách, chi cho con người, chi cho an ninh, quốc phòng, chi phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các dịch vụ công thiết yếu. Đồng thời, quyết liệt thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội về sắp xếp, tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đẩy mạnh đổi mới sự nghiệp công lập thì chi thường xuyên bình quân còn lại khoảng 62%-63% tổng chi NSNN.

Bội chi NSNN bình quân của giai đoạn khoảng 3,7% GDP và giảm dần, trong đó năm 2021 dự kiến là 4% và đến năm 2025 giảm còn 3,4% GDP. Nợ công đến 2025, ước khoảng 47,5% GDP điều chỉnh tương ứng với khoảng 60,4% GDP chưa điều chỉnh. Tổng mức vay của NSNN giai đoạn 2021-2025 là 3,18 triệu tỷ đồng, trong đó vay bù đắp bội chi là 1,9 triệu tỷ đồng và vay trả nợ gốc đến hạn là 1,27 triệu tỷ đồng. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ, có năm có thể vượt 25% tổng thu NSNN và là rủi ro trong việc huy động vốn hằng năm để bù đắp bội chi và trả nợ gốc của Chính phủ.

Đây là dự thảo kế hoạch tài chính NSNN 5 năm với tinh thần quyết tâm cao, Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến và Chính phủ đã nghiên cứu, tiếp thu, điều chỉnh lại sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và báo cáo với Quốc hội khóa XV”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nói.

Ngoài các nội dung chính này, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng trả lời thêm về ý kiến của đại biểu Bùi Thanh Tùng (đoàn Hải Phòng) và đại biểu Nguyễn Thị Mai Phương (đoàn Gia Lai) đề nghị Chính phủ về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, chỉ áp dụng đối với đối tượng là các doanh nghiệp FDI, không áp dụng đối với doanh nghiệp của Việt Nam.

Theo Bộ trưởng, Việt Nam đã ký trên 80 hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với các nước và tại Điều 24 của Hiệp định quy định không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời, theo cam kết WTO, nguyên tắc đối xử quốc gia, cấm phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong nước về thuế. Nguyên tắc đối xử quốc gia này được xác định tại Điều 3 hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch. Tại Điều 17 hiệp định chung về thương mại, dịch vụ và Điều 3 của hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Ý kiến của các doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp đã được tiếp thu và Chính phủ đã ban hành Nghị định 68 sửa đổi Nghị định 20. Mới đây, ngày 4/11, Thủ tướng cũng đã ký Nghị định 20 mới thay Nghị định 68, Nghị định 20 trước kia hướng dẫn Luật Quản lý thuế.

HY​


Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính